Cách dùng: Uống 0,50g/ngày dưới dạng thuốc bột. Dùng riêng hay phối hợp với các thuốc khác.
7. Bài thuốc với Ngũ Vị Tử
Bài thuốc với Ngũ Vị Tử
Trị kiết lị:
Dùng thuốc sống 0,25 – 2g, 90% oticture Ngũ vị tử 3 – 4 giọt, hoặc cao lỏng thuốc 0,5g. Trị kiết lị trẻ em có kết quả tốt ( Báo cáo của Vương Bản Tường, Tạp chí Y dược Thiên Tân 1965, 4:338).
Trị hội chứng Ménière:
Dùng Ngũ Vị Tử, Toan Táo Nhân, Đương Qui, Quế Viên làm thuốc thang sắc uống. Trị 20 ca phần lớn uống 4 – 5 thang khỏi bệnh ( Báo cáo của Chu Quế Phúc, Tạp chí Tai Mũi Họng Trung Hoa 1960,1:25).
Trị viêm gan mạn tính:
Dùng Ngũ Vị Tử, Linh Chi, Đơn Sâm, Sài Hồ luyện mật làm hoàn (tác giả không nói rõ liều lượng), mỗi lần uống 1 hoàn, sau khi ăn 30 phút nuốt với nước sôi nguội, một liệu trình 30 ngày. Trị 34 ca trong 3 liệu trình, có kết quả 33 ca (Báo cáo của Vương Gia Quân dùng viên Ngũ Linh Đơn trị viêm gan mạn có kết quả, Tạp chí Trung Y Thiểm Tây 1988,3:106).
Trị háo suyễn nặng:
Ngũ Vị Tử 30 – 50g, Địa Long 9 -12g, Ngư Tinh Thảo 30 – 80g, ngâm nước 2 – 4 giờ, sau đó sắc đun nhỏ lửa (văn hỏa), sắc 2 lần còn được khoảng 250ml, chia uống 2 lần: chiều 4 giờ và tối 8 giờ. Trị 50 ca, theo dõi từ 7 tháng đến 2 năm, khỏi 1 ca, hết cơn lâm sàng 47 ca, có kết quả 2 ca (Báo cáo của Tống Chí Kỳ và cộng sự về bài Tân Tam Vị Trị 50 ca suyễn nặng, Tạp chí Trung Y 1988,9:47).
Trị chứng hư nhược ra nhiều mồ hôi (đạo hãn, tự hãn):
Bá Tử Nhân Hoàn: Bá Tử Nhân, Bán Hạ Khúc đều 60g, Mẫu Lệ, Nhân Sâm, Ma Hoàng Căn, Bạch Truật, Ngũ Vị Tử đều 30g tán bột mịn trộn đều làm hoàn hoặc uống thuốc tán, mỗi lần uống 4 – 8g, ngày 2 lần.
Trị ho suyễn do phế khí âm hư, phế thận âm hư do cảm hàn:
Ngũ Vị Tử Thang: Đảng Sâm, Mạch Đông, Tang Phiêu Tiêu đều 30g, Ngũ Vị Tử 5g, sắc nước uống.
Mạch Vị Đại Hoàng Hoàn: Sinh Địa 16g, Hoài Sơn 12g, Sơn Thù 10g, Đơn Bì, Bạch Linh, Trạch Tả đều 12g, Mạch Môn 12g, Ngũ vị 4g. Trị chứng ho suyễn lâu ngày do phế thận âm hư, ho ra máu, lao phổi. Bài này cũng gọi là Bát tiên trường thọ hoàn (Sách Y cấp) hay có tên Tiếp Tục Vô Âm Phương (Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh).
Tiểu Thanh Long Thang (Thương hàn luận): Ma Hoàng 8g, Quế Chi 6g, Bán Hạ 8g, Tế Tân 4g, Bạch Thược 12g, Can Khương 8g, Chích Thảo 6g, Ngũ Vị Tử 4g, sắc uống ấm chia 3 lần trong ngày. Trị chứng ho do cảm hàn.
Ngũ Vị Tử 80g, Túc Xác Tẩm với đường sao qua 20g, 2 vị tán bột mịn luyện với kẹo Mạch Nha viên bằng quả táo, mỗi lần ngậm 1 viên (Sách Vệ Sinh Gia Bảo). Trị ho lâu ngày.
Ngũ Vị Tử, Bạch Phàn lượng bằng nhau đều tán bột mịn trộn đều, mỗi lần uống 12g, lấy phổi lợn nướng chín chấm bột ăn với nước nóng (Phổ Tế Phương). Trị ho có đờm gây khó thở.
Trị thận hư, hoạt tinh, liệt dương:
Tang Phiêu Tiêu Hoàn: Tang Phiêu Tiêu, Long Cốt, Phụ Tử đều 10g, Ngũ Vị Tử 6g, sắc nước uống hoặc làm hoàn uống.
Ngũ Vị Tử 600g tán bột mịn, mỗi lần uống 4g, ngày 3 lần. Kiêng thịt lợn, cá, tỏi, giấm. Uống hết đơn thì khỏe. Trị liệt dương (theo Thiên Kim Phương).
Trị chứng cảm nắng, mùa hè ra mồ hôi nhiều gây cương khí âm hư, mệt khát nước:
Sinh Mạch Tán (Nội Ngoại Thương Biện hoặc luận) gồm: Nhân Sâm, Mạch Môn đều 10g, Ngũ Vị 5g, sắc uống. Hiện các chuyên gia tim mạch của Trung Quốc đã nghiên cứu dùng bài thuốc này trị bệnh tim mạch như: nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực, suy tim, . có kết quả ( có tác giả dùng dạng thuốc chích hoặc truyền tĩnh mạch).
Trị tiêu chảy do tỳ thận hư hàn (Ngũ canh tả):
Tứ Thần Hoàn (Chứng trị chuẩn thằng): Bổ Cốt Chỉ (Phá Cố Chỉ) 16g, Nhục Đậu Khấu 8g, Ngũ Vị Tử 6 – 8g, Ngô Thù Du 4g, theo tỷ lệ tán bột mịn trộn với nước sắc gừng tươi và Đại Táo thêm ít bột mà làm hoàn. Mỗi lần uống 6 – 12g với nước muối nhạt ấm trước lúc tối đi ngủ. Nhiều tác giả dùng bài thuốc này trị lao ruột hoặc viêm đại tràng mạn có hội chứng tỳ thận hư hàn có kết quả.